1. Địa giới hành chính
Xã
Kiến Quốc nằm ở phía Tây Nam huyện Kiến Thụy. Bắc giáp xã Du Lễ, Đông
giáp xã Thụy Hương - Đại Hà, Nam giáp xã Tân Trào và sông Văn Úc với
chiều dài 1,7 km, Tây giáp xã Ngũ Phúc. Từ trung tâm xã theo đường 402
về trung tâm huyện lỵ dài 6 km.
Tổng diện tích tự nhiên của xã: 825, 98 ha.
Kiến
Quốc, trước năm 1945 là xã Tú Đôi thuộc tổng Nghi Dương. Sau cách mạng
tháng 8 năm 1945, xã Ngũ Phúc được thành lập trên cơ sở tổng Nghi Dương
cũ gồm cả làng Tú Đôi, Du Lễ, Nghi Dương, Mai Dương, Xuân Dương. Thời kỳ
cải cách ruộng đất (1956), xã Kiến Quốc được thành lập trên cơ sở 2
làng Tú Đôi và Du Lễ.
Ngày
10/ 01/ 2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 18/2004 NĐ-CP chia tách
xã Kiến Quốc thành lập xã Du Lễ. Xã Kiến Quốc còn lại trên cơ sở diện
tích và dân cư làng Tú Đôi.
Theo
số liệu thống kê ngày 1/4/2009, số dân của xã là 8.645 người. Mật độ
dân số 1.047 người/km2. Cả xã có 16 dòng họ và 2482 hộ dân. Số người
trong độ tuổi lao động chiếm 46% dân số, trong đó lao động nông nghiệp
chiếm 63%; công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp 16%, các hoạt động kinh
doanh sản xuất thương mại, dịch vụ và các ngành nghề khác chiếm 21%.
Số đông dân số Kiến Quốc theo đạo Phật.
2. Lịch sử, truyền thống
Từ thế kỷ thứ 8, rất nhiều thanh niên trai tráng Tú Đôi đã theo tướng Trương Nữu(người Du Lễ) tham
gia cuộc khởi nghĩa chống quân đô hộ nhà Đường do Phùng Hưng lãnh đạo.
Thế kỷ 13, nhân dân địa phương tham gia cuộc kháng chiến chống quân xâm
lược Mông - Nguyên do tướng Vũ Hải (người Du Lễ) chỉ huy. Thế
kỷ 18-19, nhân dân Tú Đôi tích cực tham gia các cuộc khởi nghĩa chống
lại triều đình phong kiến thối nát do Nguyễn Hữu Cầu (1744-1754), Phan
Bá Vành (1821-1827) lãnh đạo.
Những
năm 1930, đồng chí Hoàng Sĩ Yết (người làng Du Lễ) đã gia nhập Đảng
Cộng sản Đông Dương hoạt động tích cực, tuyên truyền và gây dựng phong
trào cách mạng ở địa phương. Từ năm 1937, nhiều thanh thiếu niên Tú Đôi
đã tham gia tổ chức Hướng đạo sinh do đồng chí Vũ Quý lãnh đạo. Năm
1939, nhân dân Tú Đôi tổ chức đấu tranh với bọn địa chủ, quan lại buộc
chúng phải nhượng bộ cấp giấy cho dân làng được phép khai khẩn, quai đắp
khu đồng trên 20 ha ven đê Văn Úc để cày cấy. Đầu năm 1940, Tú Đôi dấy
lên phong trào luyện vật, luyện võ, hội học chữ quốc ngữ, các hội tương
trợ cũng được thành lập mục đích để che tai mắt địch, hoạt động tuyên
truyền chủ trương của Việt Minh.
Tháng
8/1945 chính quyền cách mạng lâm thời của địa phương ra đời. Tháng
4/1946, Uỷ ban hành chính xã Ngũ Phúc ra đời. Tháng 4/1947, chi bộ Đảng
Cộng sản đầu tiên ở địa phương được thành lập.
Trong
kháng chiến chống Pháp, Tú Đôi có địa bàn rộng, đông dân, lực lượng tự
vệ mạnh, là nơi che giấu một bộ phận lãnh đạo của Liên tỉnh Hải- Kiến và
nhân dân nội thành tản cư về, ngoài ra còn có công binh xưởng ở chùa Tú
Đôi nên là trọng điểm tấn công và càn quét của địch. Đội du kích quyết
tử và nhân dân Tú Đôi kiên cường chiến đấu, đánh trả, cản bước các đợt
tấn công của địch. Sáng 16/10/1947, địch đổ quân đánh chiếm Trại Triều
làng Tú Đôi, có pháo yểm trợ và máy bay dội xăng bắn lửa đạn tàn sát
đồng bào, 75 người chết và hy sinh, nhiều gia đình có từ 2 đến 3 người
chết, 60 ngôi nhà bị đốt cháy, cả làng đã trở thành đống tro tàn. Ngày
18/8/1947 (âm lịch) trở thành ngày "giỗ trận" của dân làng Tú Đôi.
Trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, nhân dân Kiến Quốc đã phát huy
truyền thống cách mạng, vững tay cày, chắc tay súng bảo vệ vững chắc quê
hương, tích cực chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến, góp phần
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong
sự nghiệp xây dựng CNXH, xã Kiến Quốc trở thành xã điểm về mô hình phát
triển ngành nghề, nuôi trồng khai thác thuỷ sản, trồng cây rau màu vụ
đông, đặc biệt là cây cải Tàu cho năng suất và giá trị kinh tế cao.
Trong công cuộc đổi mới, Kiến Quốc đẩy mạnh phát triển ngành nghề,
chuyển đổi mô hình sản xuất, giải quyết việc làm tăng nguồn thu nhập cho
nhân dân.
Nhân
dân Kiến Quốc được Đảng và Nhà nước tặng nhiều phần thưởng cao quý:
Danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (2005), Huân chương kháng
chiến hạng Ba (1973), Huân chương lao động hạng Ba (1960, 1974, 2004),
Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ (1981, 1998). Xã có 5 Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, 578 cá nhân được tặng thưởng Huân, Huy chương các loại, 825
người tham gia quân đội, 184 liệt sỹ, 74 thương bệnh binh và 65 thanh
niên xung phong.
3. Kinh tế
Cơ
cấu kinh tế hiện nay của xã Kiến Quốc chủ yếu vẫn là nông nghiệp chiếm
48%, Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, Xây dựng cơ bản 14%, thương mại
dịch vụ và các nghề khác: 38%. Tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm qua
đạt 12,7%.
Diện
tích đất nông nghiệp 731 ha, trong đó diện tích vùng sâu trũng quanh
năm ngập nước là 182 ha. Sản lượng lương thực cao nhất đạt 4287 tấn (năm
2005) năng suất lúa đạt 121 tạ/ha, tăng 16% so với năm 2000.
Các
cơ sơ sản xuất nhỏ như sửa chữa máy nông cụ, xe máy, đồ dùng dân dụng
phát triển nhanh. Tổng số hộ sản xuất kinh doanh dịch vụ 442 hộ, giá trị
sản xuất kinh doanh đạt được năm 2008 là 15.000 triệu VND. Tăng 120% so
với 2000.
Chợ
Kiến Quốc ngày tuy quy mô chưa lớn nhưng hàng hoá có đủ chủng loại, đáp
ứng nhu cầu thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân địa phương và các xã
lân cận. Kiến Quốc còn có một chợ đầu mối hàng thuỷ sản lớn nhất vùng,
mỗi ngày có từ 10-15 tấn tôm, cá các loại qua đây, thu hút hơn 300 lao
động tham gia.
Trục
đường 402 liên huyện qua địa bàn xã dài 1,9 km. Hệ thống đường liên
thôn phủ nhựa dài 5,95 km, đạt 100%; đường bê tông ngõ xóm 10,2 km, đạt
90 %. Xã có 22 xe ô tô dần thay thế phương tiện thô sơ.
Thu nhập bình quân đầu người 2008: 10,67 triệu VND (chưa thống kê hết nguồn thu của người đi lao động ở xa).
Hộ có nhà xây mái bằng kiên cố 25 %; dùng nước hợp vệ sinh chiếm 90 %
dân số. Tỷ lệ dùng điện thoại 25 máy/100 dân, hộ có ti vi 99%; xe máy
bình quân 6 người/xe.
Tỷ lệ hộ nghèo 9,5 % theo tiêu chí mới.
Sản
vật đặc trưng của Kiến Quốc là các loại cá đồng, cá nước lợ, thực phẩm
chế biến từ rươi, chuột đồng, rắn. các loại trái cây vùng đồng bãi ven
sông như cam chua, hồng không hạt. Giống cải tàu lá xanh, bẹ to, nặng từ
2,5 đến 3kg, nổi tiếng trong vùng.
4. Văn hoá - xã hội.
Kiến
Quốc là một làng cổ được đánh giá là làng có văn học, phong tục thuần
hậu. Trải suốt chiều dài lịch sử người dân Kiến Quốc không ngừng vun đắp
truyền thống yêu nước, cần cù lao động, kiên cường chống áp bức bóc
lột, chống giặc ngoại xâm, bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc.
Xưa
kia hạn hán kéo dài, nhân dân ven sông biển thường mở hội cầu mưa (cầu
đảo) bằng cách tổ chức vật, do vậy thanh niên Kiến Quốc có tài đánh vật
nổi tiếng. Lễ hội ở Tú Đôi xưa rất phong phú, đặc sắc. Hàng năm, vào
tiết thu tháng tám âm lịch, cả làng lại rộn rã vào hội hát đúm, bơi
thuyền trên đầm chiêm, ruớc đèn kéo quân, ruớc trống múa kỳ lân. Trai
thanh, nữ tú trong vùng về dự hội rất đông. Lễ hội "Rước lợn ông Bồ" vào
ngày 4 tháng chạp hàng năm ở Miếu thờ vị thuỷ thần (Tương truyền thần miếu đã phù vua Lê Đại Hành đánh tan quân giặc, miếu vẫn lưu 6 sắc phong triều Nguyễn).
Lễ hội "Giao thuyền" được tổ chức vào ngày 6 tháng giêng. Lễ hội "Rước
lợn Ông Bồ" và lễ hội "Giao thuyền" nay đã được địa phương khôi phục,
duy trì ngày càng mở rộng, thu hút đông đảo nhân dân tham gia.
Đình,
chùa Tú Đôi được công nhận là Di tích lịch sử Văn hoá cấp thành phố.
Đình Tú Đôi xưa xây dựng khá lớn, kiến trúc bề thế, bằng gỗ lim, khuôn
viên rộng có hồ sen. Chùa Tú Đôi được xây dựng từ khá sớm, qua tu sửa
nhiều lần, tượng phật, đồ thờ, chuông đồng vẫn được gìn giữ.
Hương
ước các làng xã Kiến Quốc xưa trọng việc lễ nghĩa, đảm bảo cho thiết
chế làng xã được duy trì nghiêm, khuyến khích thuần phong mỹ tục. Văn
bia, câu đối đại tự còn lưu tại các từ đường các dòng họ đều khuyên răn
các thế thế hệ con cháu phải thật thà, bền chí, cần cù lao động, tu tâm
tích đức, coi trọng phẩm giá con người.
Hương
ước nay có sự kế thừa nét đẹp truyền thống, xây dựng đời sống văn hoá
mới. Thiết chế văn hoá đồng bộ. Nhà văn hoá, đài phát thanh, bưu điện
văn hoá xã hoạt động hiệu quả, 8/9 thôn đạt thôn dân cư văn hoá. Phong
trào văn nghệ, thể thao quần chúng phát triển mạnh. Xã thành lập đội hát
chèo phục vụ nhu cầu sinh hoạt văn hoá văn nghệ địa phương.
Người
dân Tú Đôi xưa rất coi trọng học hành, có nhiều người tham gia các kỳ
thi lớn. Theo gia phả họ Đào, cụ Đào Đăng Đống thi hương đỗ Nhị trường.
Cụ Vũ Phú Lương làm quan võ dưới triều Nguyễn. Theo văn bia ở Văn miếu
Xuân La (phủ Kiến Thuỵ), năm Minh Mệnh thứ 2 (1821) ghi rõ ở Tú Đôi có
Nguyễn Danh Kham, Nguyễn Đình Nhưng đỗ đạt cao. Đây là 2 ông trong số 45
tri thức thuộc tổng Nghi Dương thời đó.
Phát
huy truyền thống hiếu học, giáo dục của xã Kiến Quốc dưới chế độ mới
không ngừng phát triển về quy mô và chất lượng. Xã đã xoá mù chữ năm
1958; hoàn thành phổ cập tiểu học năm 1990, trung học cơ sở năm 2000,
phổ cập trung học và nghề năm 2008. Cả 3 trường Mầm non, Tiểu học và
Trung học cơ sở nhiều năm đạt danh hiệu trường tiên tiến cấp huyện. Số
người có học vị tiến sỹ, thạc sỹ 35, đại học, cao đẳng 286 (thống kê cả người thoát ly).
Dưới chế độ mới công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân đạt được nhiều kết quả. Đến nay, Trạm
y tế xã có 10 phòng làm việc và phòng chức năng, có vườn cây thuốc nam
đảm bảo đủ điều kiện khám chữa bệnh thông thường cho nhân dân địa
phương. Năm 2008, xã đạt chuẩn Quốc gia về y tế. Liên tục nhiều năm liền
không để xảy ra dịch bệnh trên địa bàn. Xã là địa bàn trắng về ma tuý.
5. Định hướng phát triển
kiến
Quốc có tiềm năng lớn về lao động, đất đai và phát triển ngành nghề.
Vùng diện tích sâu trũng và vùng đầm bãi rộng là thế mạnh để địa phương
đẩy mạnh nuôi trồng và khai thác thủy sản, lấy nuôi trồng và khai thác
thủy sản là mũi nhọn phát triển kinh tế. Quy
hoạch xây dựng chợ đầu mối thuỷ sản, phát triển dịch vụ thuỷ sản. Nông
nghiệp hướng vào quy hoạch phát triển vùng lúa cao sản, vùng chuyên canh
cây rau màu sạch, đặc biệt khôi phục giống
cây cải Tàu truyền thống. Phát triển các loại cây ăn quả: cam chua,
hồng không hạt và các loại cây khác có giá trị kinh tế cao.